Ngày Chúa Nhật thứ hai trong tháng năm, tại nhiều nước trên thế giới, được
gọi là ngày của Mẹ, ngày dành riêng để tỏ lòng báo hiếu đối với Mẹ...
Sáng kiến dành ngày Chúa Nhật thứ hai của tháng năm làm ngày của mẹ được
gán cho một thiếu nữ người Hoa Kỳ tên là Anna M.Jarvis qua đời khoảng năm 1948.
Mẹ của cô qua đời tháng năm năm 1905. Trong những năm kế tiếp, cô thường tổ chức
giỗ mẹ một cách trọng thể như mời bạn bè đến cầu nguyện tại gia đình. Cô viết
thư gửi tới các nhân vật quan trọng trong nước Mỹ để xin lập một ngày tưởng nhớ
các bà Mẹ. Tiểu bang nơi cô đang sống đã chấp nhận đề nghị năm 1913. Và ngày 10
tháng 5 ấy, quốc hội Hoa Kỳ cũng thông qua đề nghị nhận ngày Chúa Nhật thứ hai
trong tháng 5 như một ngày để ghi ơn các bà mẹ. Tổng thống Wilson của Hoa Kỳ đã
công bố quyết định này ngày 09/5/1914. Tục lệ này đã lan rộng sang nhiều quốc
gia trên thế giới... Trong ngày nhớ mẹ,
người con thường cài trên áo một bông hoa cẩm chướng màu trắng nếu mẹ đã quá cố
và màu hồng dành cho những ai còn mẹ.
Trong các tước hiệu Giáo Hội dùng để gọi Ðức Maria, có lẽ xứng hợp với
tâm tình con người hơn cả vẫn là tước hiệu Mẹ. Chúng ta có thể gọi Ðức Maria là
Mẹ với tất cả tâm tình trìu mến như khi chúng ta gọi người mẹ của chúng ta. Do
lời trăn trối của chính Chúa Giêsu con Mẹ, Mẹ đã trở thành Mẹ của Giáo Hội. Qua
muôn thế hệ, Mẹ không ngừng cưu mang, sinh ra và dưỡng dục các tín hữu trong Ðức
tin.
Niềm hạnh phúc của bất cứ người mẹ nào vẫn là thấy con mình được nên người.
Mẹ Maria chăm chú theo dõi và lo lắng cho từng người chúng ta. Niềm vui của Mẹ
chính là thấy mỗi người chúng ta được lớn lên theo hình ảnh của Chúa Giêsu con
Mẹ...
Chúng ta mang đến cho Mẹ những bó hoa trong suốt tháng 5, tháng 10 và
trong từng lời Kinh dâng lên Mẹ. Nhưng có lẽ Mẹ sẽ sung sướng hơn mỗi lần nhìn
thấy sự trưởng thành nơi chúng ta. Mỗi lần chúng ta lớn lên trong ân phúc,
trong bác ái yêu thương, trong hy vọng tin yêu: đó là những bó hoa tốt đẹp nhất
mà chúng ta dâng lên Mẹ...
Trích sách Lẽ Sống
Ảnh: Internet
Thứ Hai Tuần IV Phục Sinh
Năm C
"Ta là cửa chuồng chiên".
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng:
"Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng chiên,
nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua cửa mà vào,
thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng
kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra. Khi đã lùa chiên
mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy.
Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn tránh, vì chúng không quen tiếng
người lạ".
Giêsu phán dụ ngôn này,
nhưng họ không hiểu Người muốn nói gì. Bấy giờ Chúa Giêsu nói thêm: "Thật,
Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến trước đều
là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ
được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến thì
chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho chúng được sống
và được sống dồi dào".
Đó là lời Chúa.
0 comments:
Đăng nhận xét