Là
đứa
bé nhất
trong năm đứa trẻ
lớn
lên trên đảo Prince Edward thuộc
Cannada, tôi cảm thấy
cuộc
đời
thật
đẹp.
Bố
mẹ
và anh chị rất
yêu tôi, không ai nói nhưng tôi cảm
nhận
được
điều
đó. Mẹ
lớn
lên ở
Anh, tất
cả
các con bà cũng sinh ra tại đó. Trước
Thế
chiến
thứ
I, chúng tôi dời sang Cannada, việc
này với
mẹ
hơi
khó chấp
nhận.
Gia đình chuyển về
New York khi chiến tranh kết
thúc. Mẹ
có hai câu rất thích nói: “Việc
này cũng sẽ qua thôi.” Bà nói câu này mỗi
khi thất
vọng
hay có ai bị ốm.
Câu còn lại là: “Cẩn
thận
với
những
gì con yêu cầu. Có thể
con phải
nhận
nó đấy.”
Khi
sắp
được
11 tuổi,
một
trong những
người
bạn
của
tôi bị
tai nạn
ô-tô rất
nặng.
Tôi cầu
xin để
cô ta không chết. Tôi tự
nhủ
rồi
cô ấy
sẽ
lại
chơi
được
với
mình. Cuối
cùng, Jeanie được về
nhà và tôi đã đến thăm cô ấy.
Khi bước
đến
cửa
phòng ngủ,
tôi giật
mình dừng
lại.
Khuôn mặt
ấy
không còn nguyên vẹn, cô chỉ
còn một
mắt.
Nửa
người
dưới
của
Jeanie bị
liệt,
hai chân không còn cử động
được.
Tôi mừng
vì mẹ
bạn
ấy
đã theo tôi vô phòng vì bây giờ cô ấy
đang nói rất nhẹ
nhàng: “Đến đây, cậu
bé. Lâu thế đủ
rồi,
Jeanie cần
phải
nghỉ.”
Tôi có cảm
giác cắn
rứt.
Sao tôi lại cầu
xin cho Jeanie được sống
mà hầu
như
chẳng
còn biết
gì nữa?
Tôi cảm
thấy
rất
có tội,
còn mẹ
chỉ
cố
thuyết
phục
rằng
những
gì tôi làm là đúng.
Chưa
hết
tháng, Jeanie đã qua đời tại
nhà. Mọi
người,
đặc
biệt
là mẹ
cô cảm
thấy
nhẹ
nhõm vì sự chịu
đựng
đau khổ
của
Jeanie không còn nữa. Giờ
đây tôi mới hiểu
rõ lời
cảnh
báo của
mẹ
“Hãy cẩn
thận
với
những
gì con cầu
xin.”
Qua
nhiều
năm, có nhiều biến
cố
khiến
tôi phải
cầu
nguyện
nhưng
tôi luôn cẩn
thận
khi muốn
xin điều
gì.
Năm
30 tuổi,
tôi bắt
đầu
cuộc
sống
gia đình. Lời nói của
mẹ
lại
một
lần
nữa
vọng
trong tim tôi. Vợ chồng
chúng tôi sống ở
khu vực
dân cư
xinh đẹp,
phía đông bắc quận
Bronx. Người dân nơi
đây thân thiện
và tốt
bụng,
mọi
người
đều
quan tâm đến công việc
làm ăn của
nhau.
Tại
đây có một
người
đàn ông sống cùng mẹ
mình đã nhiều năm. Mấy
thằng
bé vẫn
hay trêu chọc ông, các bà mẹ
dẫn
con gái đi chơi khi gặp
ông thường
đề
phòng như
sợ
có chuyện
gì. Có lẽ
ông ấy
chỉ
mới
ngoài 30. Cách nhìn chằm chằm
thường
khiến
phụ
nữ
không thoải mái nhưng
ông chưa
bao giờ
hại
ai. Ngược
lại,
ông luôn cố tỏ
ra là người
tốt.
Hồi
Thế
chiến
thứ
II, ông từng gia nhập
Hải
quân nhưng
chỉ
vài tháng sau đã về nhà vì lệnh
sa thải
“ngoài lý do danh dự”. Họ
nói ông ấy
không thuộc về
Hải
quân. Mỗi
khi được
phép, ông hay giúp đỡ những
người
hàng xóm làm vườn, ngoài ra ông còn giữ
gìn sân bóng chày cho bọn trẻ.
Đó là người
có cuộc
sống
trầm
lặng.
Sau khi các cựu chiến
binh trở
về,
họ
muốn
xây dựng
một
bưu
điện
tại
địa
phương.
Charlie làm
việc
rất
chăm chỉ
để
lên danh sách các thành viên và tìm một
chỗ
hội
họp.
Cuối
cùng bưu
điện
đã được
thành lập,
anh Joe chồng tôi được
bầu
làm người
đứng
đầu
nơi
đây. Không lâu sau, tư
cách thành viên của
Charlie bị chất
vấn.
Lệnh
sa thải
“ngoài lý do danh dự” khiến
ông ta gặp
nhiều
rắc
rối.
Joe và mấy
người
khác phải
cố
gắng
thuyết
phục
những
người
khác chấp
nhận
ông. Charlie rất biết
ơn
và tự
hào là thành viên của bưu
điện
American Legion.
Một
tối
nọ,
Charlie bị xe đụng
khi đi trên một con đường
không ánh đèn. Lúc tỉnh lại,
ông không còn nhớ gì nữa.
Bệnh
viện
địa
phương
đã chuyển
ông về
bệnh
viện
Bellevue ở Manhattan. Cuộc
đời
ông giờ
chỉ
là bóng tối và đau đớn.
Ông
có thói quen đến nhà hàng xóm thăm hỏi
họ.
Những
nhà chỉ
có phụ
nữ
thường
khóa kín cửa sợ
ông vào. Một tối,
ông gõ cửa
nhà tôi. Chồng tôi ra mở
cửa
mời
ông vào.
Charlie
chỉ
muốn
nói chuyện
và cần
ai đó để
nghe. Ông bảo đôi mắt
giờ
rất
kém, hình ảnh bị
nhòa cả.
Chúng tôi biết Charlie là người
đọc
sách nhiều,
cách sử
dụng
từ
khi nói chuyện chứng
tỏ
điều
đó. Bây giờ, ông không đọc
được
nữa.
Vợ
chồng
tôi thấy
buồn
khi ông chào ra về, cuộc
đời
sao bất
công đến
vậy.
Tôi
nằm
trên giường
nghĩ về
Charlie, tôi muốn cầu
nguyện
cho ông… nhưng cầu
gì đây? Tôi nhớ lại
câu chuyện
về
Charlie. Tôi tự hỏi
mẹ
sẽ
giải
quyết
chuyện
này thế
nào? Tôi điểm qua những
nỗi
bất
hạnh
của
Charlie trong cuộc sống.
Sau khi rời Hải
quân ít lâu, mẹ ông ta chết.
Người
em gái đã đến để
chăm sóc ông. Sau tai nạn, Charlie không còn
muốn
sống,
ông chẳng
thèm cạo
râu, tắm
rửa,
ủi
đồ.
Người
em thấy
không thể
chăm sóc cho anh mình nữa.
Tôi
nhớ
lại
tất
cả
những
thông tin về Charlie. Ông rất
có tài làm vườn. Sau khi bị
chấn
thương
ở
mắt,
bác sĩ không cho ông cong lưng hay cúi thấp
đầu,
vì vậy
việc
làm vườn
cũng chấm
hết.
Nằm
trong bóng đêm, tôi nhận ra có ai đó trong
phòng. Một
người
hay cái gì đó đang lắng nghe câu chuyện
về
Charlie. Tôi muốn cầu
nguyện
cho ông, nhưng nên cầu
gì đây? Lần này tôi không thể
mắc
sai lầm
khi cầu
xin. Tôi xin Chúa hãy tỏ lòng từ
bi với
người
đàn ông nhiều ưu
phiền
này. Khi chuông báo thức vang, tôi và Joe đi
làm vệ
sinh buổi
sáng như
thường
ngày. Joe đi trước, còn tôi khóa chặt
cửa
dẫn
con chó đi tản bộ.
Tôi không nghĩ đến những
chuyện
tối
qua đến
khi chuông điện thoại
reo. Charlie đang gọi.
Tôi
hết
sức
hồi
hộp
khi nghe Charlie nói: “Tôi không biết
mấy
bạn
làm gì tôi tối qua, nhưng
sáng nay mắt
tôi nhìn rất rõ. Tôi còn đọc
được
số
điện
thoại
của
chị
nữa
mà.” Giọng
nói ông ta rất rõ: “Tôi chỉ
muốn
báo cho chị biết.”
Charlie
đã dập
điện
thoại
nhưng
tôi vẫn
im lặng
chưa
thể
nói gì. Tôi khóc và cảm thấy
rất
hạnh
phúc, lời
cầu
nguyện
đã được
Chúa thực
hiện.
Mẹ
chắc
cũng mừng
cho tôi.
Dịch
giả:
Thế
Anh
Thứ Tư Tuần VII Mùa Phục Sinh
Lời Chúa: Ga 17,11b-19
11b Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: "Lạy Cha chí thánh, xin hãy gìn giữ trong danh Cha những kẻ Cha đã ban cho Con, để chúng được nên một như Ta. 12 Khi Con còn ở với chúng, Con đã gìn giữ chúng trong Cha. Con đã gìn giữ những kẻ Cha đã giao phó cho Con, không một ai trong chúng bị mất, trừ ra con người hư vong, để lời Kinh Thánh được nên trọn. 13 Bây giờ Con về cùng Cha, và Con nói những điều này khi Con còn dưới thế, để chúng được đầy sự vui mừng của Con trong lòng.
14 "Con đã ban lời Cha cho chúng, và thế gian đã ghét chúng, vì chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian. 15 Con không xin Cha đem chúng ra khỏi thế gian, nhưng xin gìn giữ chúng cho khỏi sự dữ. 16 Chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian. 17 Xin hãy thánh hoá chúng trong
chân lý: lời Cha là chân lý. 18 Cũng như Cha đã sai Con vào thế gian, thì Con cũng sai chúng vào thế gian. 19 Và vì chúng, Con đã tự thánh hoá, để cả chúng cũng được thánh hoá trong chân lý".
http://tgpsaigon.net/suy-niem/20160510/34776
0 comments:
Đăng nhận xét