Thứ Sáu, 4 tháng 1, 2019

THÁNH GIOAN NEUMANN

(1811 - 1860)
Thánh Gioan Neumann sinh trưởng ở Bohemia. Vào năm 1835, ngài trông đợi để được thụ phong linh mục nhưng đức giám mục sở tại quyết định không phong chức thêm. Thật khó để ngày nay chúng ta tưởng tượng rằng Bohemia dư thừa linh mục, nhưng thực sự là như vậy. Gioan viết thư cho các giám mục khắp Âu Châu, nhưng câu trả lời ở đâu đâu cũng giống nhau. Tin rằng mình có ơn thiên triệu nhưng mọi cơ hội dẫn đến sứ vụ ấy dường như đều đóng kín.
Không nản chí, và nhờ biết tiếng Anh khi làm việc trong xưởng thợ của người Anh, ngài viết thư cho các giám mục ở Mỹ Châu. Sau cùng, vị giám mục ở Nữu Ước đồng ý truyền chức linh mục cho ngài. Ðể theo tiếng Chúa gọi, ngài phải từ giã quê nhà vĩnh viễn và vượt đại dương ngàn trùng để đến một vùng đất thật mới mẻ và xa lạ.
Ở Nữu Ước, Cha Gioan là một trong 36 linh mục trông coi 200,000 người Công Giáo. Giáo xứ của ngài ở phía tây Nữu Ước, kéo dài từ Hồ Ontario đến Pennsylvania. Nhà thờ của ngài không có tháp chuông nhưng điều đó không quan trọng, vì hầu như lúc nào Cha Gioan cũng di chuyển, từ làng này sang làng khác, lúc thì lên núi để thăm bệnh nhân, lúc thì trong quán trọ hoặc gác xếp để giảng dạy, và cử hành Thánh Lễ ngay trên bàn ăn.
Vì sự nặng nhọc của công việc và vì sự đơn độc của giáo xứ, Cha Gioan khao khát có một cộng đoàn, và đã ngài gia nhập dòng Chúa Cứu Thế, là một tu hội chuyên giúp người nghèo và những người bị bỏ rơi.
Vào năm 1852, Cha Gioan được bổ nhiệm làm giám mục Philadelphia. Việc đầu tiên khi làm giám mục là ngài tổ chức trường Công Giáo trong giáo phận. Là một nhà tiên phong trong việc giáo dục, ngài nâng số trường Công Giáo từ con số đơn vị lên đến 100 trường.
Ðức Giám Mục Gioan không bao giờ lãng quên dân chúng - đó là điều làm giới trưởng giả ở Philadelphia khó chịu. Trong một chuyến thăm viếng giáo xứ ở thôn quê, cha xứ thấy ngài ngồi trên chiếc xe bò chở phân hôi hám. Ngất ngưởng ngồi trên mảnh ván bắc ngang trên xe, Ðức Gioan khôi hài, "Có bao giờ cha thấy đoàn tùy tùng của một giám mục như vậy chưa!"
Khả năng biết tiếng ngoại quốc đã đưa ngài đến Hoa Kỳ thì nay lại giúp Ðức Gioan học tiếng Tây Ban Nha, Pháp, Ý, và Ðức để nghe giải tội bằng sáu thứ tiếng. Khi phong trào di dân người Ái Nhĩ Lan bắt đầu, ngài lại học tiếng Gaelic và sành sõi đến nỗi một bà Ái Nhĩ Lan cũng phải lầm, "Thật tuyệt chừng nào khi chúng ta có được vị giám mục là người đồng hương!"
Trong chuyến công tác mục vụ sang nước Ðức, đến nơi ngài ướt đẫm dưới cơn mưa tầm tã. Khi gia chủ đề nghị ngài thay đôi giầy sũng nước, ngài trả lời, "Tôi chỉ có cách đổi giầy từ chân trái sang chân phải thôi. Chứ có một đôi giầy thì làm gì được."
Ðức Gioan từ trần ngày 5-1-1860 khi mới 48 tuổi. Ngài nổi tiếng về sự thánh thiện và sở học cũng như các trước tác tôn giáo và bài giảng, do đó ngài được phong chân phước ngày 13-10-1963, và ngày 19-6-1977 ngài được phong thánh.
Lời Bàn
Thánh Neumann coi trọng lời Chúa là "Hãy đi rao giảng cho muôn dân." Từ Ðức Kitô, ngài nhận được các huấn lệnh và cũng nhờ Ðức Kitô mà ngài có thể thi hành sứ mệnh ấy. Vì Ðức Kitô không chỉ trao cho chúng ta sứ mệnh mà còn cung cấp phương tiện để hoàn thành. Ơn sủng mà Thiên Chúa ban cho Thánh Gioan Neumann là biệt tài tổ chức của ngài để qua đó ngài loan truyền Tin Mừng.
Giáo Hội ngày nay rất cần đến sự hy sinh của mọi người trong công cuộc rao giảng Tin Mừng. Những trở ngại và những bất tiện thì có thật và tốn kém. Tuy nhiên, nếu chúng ta biết chạy đến Ðức Kitô, Ngài sẽ cung cấp cho chúng ta những khả năng cần thiết để đáp ứng với các nhu cầu ngày nay. Thần Khí Ðức Kitô tiếp tục hoạt động qua các trung gian là sự quảng đại của Kitô Hữu.
Lời Trích
"Vì mọi người thuộc bất cứ chủng tộc nào, điều kiện nào và thế hệ nào đều có phẩm giá của một con người, nên họ có quyền được giáo dục tùy theo số phận của họ và thích hợp với khả năng bẩm sinh, với phái tính, với văn hóa và di sản của tổ tiên họ để lại. Ðồng thời, việc giáo dục này phải dẫn đến tình huynh đệ với các dân tộc khác, để sự bình an và sự hợp nhất đích thực có thể thực hiện được ở trần gian. Vì sự giáo dục đích thực nhắm đến việc đào tạo con người đối với lợi ích của xã hội mà trong đó họ là một phần tử, và họ phải chia sẻ trách nhiệm của phần tử ấy như một người trưởng thành" (Tuyên Ngôn Về Giáo Dục Kitô Giáo, 1).
Trích từ NguoiTinHuu.com
Ảnh: Internet
Thứ Bảy (sau lễ Thánh Gia Thất) Mùa Giáng Sinh Năm C
Ngày 5/1 Thánh Gioan Neumann (1811 - 1860)
PHÚC ÂM: Ga 1, 43-51
"Thầy là Con Thiên Chúa, là Vua Israel".
Khi ấy, Chúa Giêsu định đi Galilêa. Người gặp Philíp và nói với ông: "Hãy theo Ta". Philíp là người thành Bếtsaiđa, quê quán của Anrê và Phêrô. Philíp gặp Nathanael và nói với ông: "Đấng đã được Môsê ghi trong Luật và các tiên tri nói đến, chúng tôi đã gặp rồi: đó là Giêsu con ông Giuse, người thành Nadarét". Nathanael đáp: "Bởi Nadarét nào có cái chi hay?" Philíp nói: "Hãy đến mà xem". Chúa Giêsu thấy Nathanael đi tới mình, thì nói về ông: "Đây thật là người Israel, nơi ông không có gì gian dối". Nathanael nói: "Sao Ngài biết tôi?" Chúa Giêsu trả lời rằng: "Trước khi Philíp gọi ngươi, lúc ngươi còn ở dưới cây vả, thì Ta đã thấy ngươi". Nathanael thưa lại rằng: "Lạy Thầy, Thầy là Con Thiên Chúa, là Vua Israel". Chúa Giêsu trả lời: "Vì Ta đã nói với ngươi rằng Ta đã thấy ngươi dưới cây vả, nên ngươi tin; ngươi sẽ thấy việc cao trọng hơn thế nữa".
Và Người nói với ông: "Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi, các ngươi sẽ thấy trời mở ra, và các thiên thần Chúa lên xuống trên Con Người".      

Thứ Năm, 3 tháng 1, 2019

THÁNH ELIZABETH ANN SETON

Mẹ Seton là một trong những rường cột của Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ. Ngài sáng lập tu hội đầu tiên dành cho phụ nữ Hoa Kỳ, Dòng Nữ Tu Bác Ái, mở trường học đầu tiên trong giáo xứ Hoa Kỳ và thiết lập cô nhi viện đầu tiên ở Hoa Kỳ. Tất cả những điều trên ngài thực hiện trong vòng 46 năm đồng thời vừa nuôi dưỡng năm người con.
Elizabeth Ann Bayley Seton quả thực là người của thế hệ Cách Mạng Hoa Kỳ, ngài sinh ngày 28 tháng Tám 1774, chỉ hai năm trước khi có bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập. Bởi dòng dõi và hôn nhân, ngài có liên hệ đến các thế hệ đầu tiên sống ở Nữu Ước và vui hưởng kết quả của một xã hội tiến bộ. Ðược nuôi nấng trong một gia đình nề nếp Anh Giáo, ngài biết được giá trị của sự cầu nguyện, Kinh Thánh và sự kiểm điểm lương tâm hàng đêm trước khi đi ngủ. Cha của ngài, Bác Sĩ Richard Bayley, không đóng góp nhiều cho nhà thờ nhưng ông là người rất nhân đạo, đã dạy được cho cô con gái bài học yêu thương và phục vụ tha nhân.
Sự chết sớm của người mẹ năm 1777 và của bà vú nuôi năm 1778 đã đem lại cho Elizabeth một cảm nhận về sự tạm bợ của trần gian và thúc giục ngài hướng về vĩnh cửu. Thay vì ủ rũ và chán chường, ngài đối diện với các biến cố mà ngài coi là sự "hủy hoại khủng khiếp" với một hy vọng đầy phấn khởi.
Vào năm 19 tuổi, Elizabeth là hoa khôi của Nữu Ước và kết hôn với một thương gia đẹp trai, giàu có là ông William Magee Seton. Họ được năm người con trước khi doanh nghiệp lụn bại và ông chết vì bệnh lao. Vào năm 30 tuổi, bà Elizabeth đã là một goá phụ, không một đồng xu và phải nuôi nấng năm đứa con.
Trong khi sống ở Ý, bà được chứng kiến phong trào Tông Ðồ Giáo Dân qua gia đình của những người bạn. Ba điểm căn bản sau đã đưa bà trở về đạo Công Giáo: tin tưởng sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, sùng kính Ðức Mẹ và tin rằng Giáo Hội Công Giáo là một giáo hội tông truyền do Ðức Kitô thành lập. Nhiều người trong chính gia đình bà cũng như bạn hữu đã tẩy chay bà khi trở lại Công Giáo vào tháng 3/1805.
Ðể nuôi con, bà mở trường học ở Baltimore. Ngay từ ban đầu, nhóm giáo chức của bà đã theo khuôn khổ của một tu hội, mà sau đó được chính thức thành lập vào năm 1809.
Hàng ngàn lá thư của Mẹ Seton để lại cho thấy sự phát triển đời sống tâm linh của ngài, từ những việc tốt lành bình thường cho đến sự thánh thiện cách anh hùng. Ngài chịu đau khổ vì những thử thách như đau ốm, hiểu lầm, cái chết của những người thân yêu (chồng và hai con gái), cũng như sự lo lắng đến đứa con trai hoang đàng. Ngài từ trần ngày 4 tháng Giêng 1821, và vào ngày 17-3-1963, Ðức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã tuyên xưng ngài là vị chân phước đầu tiên người Hoa Kỳ. Ngài được phong thánh ngày 24-9-1975.
Lời Bàn
Thánh Elizabeth Seton không có những khả năng phi thường. Ngài không phải là một vị thần bí hay được in năm dấu thánh. Ngài không được ơn tiên tri hay nói tiếng lạ. Ngài chỉ có hai điều thành tâm: từ bỏ ý riêng để theo thánh ý Thiên Chúa, và yêu quý Bí Tích Thánh Thể. Ngài viết thư cho người bạn là bà Julia Scott, rằng ngài muốn đổi cả thế gian để sống ẩn dật ở "trong hang hay sa mạc. Nhưng Thiên Chúa đã ban cho tôi nhiều việc phải làm, và tôi hằng cầu xin và luôn luôn hy vọng được vâng theo ý Chúa hơn là ý riêng tôi." Kiểu cách nên thánh của ngài là mở lòng cho mọi sự nếu chúng ta yêu mến Thiên Chúa và thi hành thánh ý Ngài.
Lời Trích
Thánh Elizabeth Seton nói với các nữ tu, "Tôi thiết nghĩ mục đích trước nhất trong công việc hàng ngày của chúng ta là thi hành thánh ý Thiên Chúa; thứ đến, thi hành điều ấy trong phương cách mà Ngài muốn; và thứ ba, thi hành điều ấy vì đó là ý Chúa."
        Trích từ NguoiTinHuu.com
Ảnh: Hội dòng Đaminh Tam Hiệp
Thứ Sáu (sau lễ Thánh Gia Thất) Mùa Giáng Sinh Năm C
Ngày 4/1 Thánh Elizabeth Ann Seton (1774 - 1821)
PHÚC ÂM: Ga 1, 35-42
"Chúng tôi đã gặp Đấng Cứu Thế".
Khi ấy, Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông, nhìn theo Chúa Giêsu đang đi mà nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa". Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Chúa Giêsu. Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại, thấy họ đi theo mình, thì nói với họ: "Các ngươi tìm gì?" Họ thưa với Người: "Rabbi, nghĩa là thưa Thầy, Thầy ở đâu?" Người đáp: "Hãy đến mà xem".
Họ đã đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy, lúc đó độ chừng giờ thứ mười. Anrê, em ông Simon Phêrô, (là) một trong hai người đã nghe Gioan nói và đã đi theo Chúa Giêsu. Ông gặp Simon anh mình trước hết và nói với anh: "Chúng tôi đã gặp Đấng Messia, nghĩa là Đấng Kitô", và ông dẫn anh mình tới Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nhìn Simon và nói: "Ngươi là Simon, con ông Gioan, ngươi sẽ được gọi là Kêpha, nghĩa là Đá".

Thứ Tư, 2 tháng 1, 2019

LÒNG THƯƠNG XÓT

“Trong một cuộc họp, người ta nhờ tôi lo cho ông Pierre, một người đàn ông bị khuyết tật ngoài 50 tuổi. Ông bị điếc và bị thiễu năng trí tuệ khá nặng. Khi tôi gặp ông thì ông khá lo lắng. Tôi lo cho ông theo sức tôi, một cách nào đó như tôi đang làm bổn phận của mình.
Chiều thứ bảy hôm đó có nghi thức hòa giải. Pierre đứng dậy để đi xưng tội. Tôi nhìn anh và không hiểu làm sao anh có thể xưng tội… Pierre ngồi xuống, bắt đầu hét to vài câu bình thường như các câu hàng ngày của anh. Linh mục có vẻ hơi khó chịu. Một vài giây phút thinh lặng và cầu nguyện. Rồi linh mục ban phép giải tội cho anh.
Tôi sẽ không bao giờ quên cảnh này. Pierre nhảy dựng lên, anh ôm linh mục, anh hôn dây các phép của linh mục. Tôi chứng kiến cuộc gặp gỡ của hai người, hai người đứng trước mặt Chúa, cả ba chứng kiến lòng dịu dàng và lòng thương xót của Chúa”.
Góp nhặt
Ảnh: Conggiao.info
Thứ Năm (sau lễ Thánh Gia Thất) Mùa Giáng Sinh Năm C
PHÚC ÂM: Ga 1, 29-34
"Đây Chiên Thiên Chúa".
Ngày hôm sau, Gioan thấy Chúa Giêsu đến với mình thì nói: "Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian. Đây chính là Đấng mà tôi đã nói rằng: 'Có người đến sau tôi, nhưng cao trọng hơn tôi, vì Người vốn có trước tôi'. Phần tôi, trước tôi không biết Người, nhưng tôi đã đến làm phép rửa bằng nước để Người được tỏ mình ra trong Israel".
Gioan đã làm chứng rằng: "Tôi đã thấy Thánh Thần, như chim bồ câu, từ trời xuống ngự trên Người. Và trước tôi không biết Người, nhưng Đấng đã sai tôi làm phép rửa trong nước bảo tôi: 'Ngươi thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai, thì chính người đó là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần'. Tôi đã thấy và làm chứng rằng: Người là Con Thiên Chúa".

Thứ Ba, 1 tháng 1, 2019

THÁNH BASIL CẢ

Thánh Basil đang là một thầy giáo nổi tiếng thì ngài quyết định theo đuổi đời sống tu trì nghèo hèn của Phúc Âm. Sau khi tìm hiểu các phương thức tu trì, có thể nói ngài là người sáng lập đan viện đầu tiên ở Tiểu Á. Ngài nổi tiếng đối với các vị ẩn tu Ðông Phương cũng như Thánh Benedict nổi tiếng ở Tây Phương, và quy luật ngài viết đã ảnh hưởng đến đời sống đan viện Ðông Phương mãi cho đến ngày nay.
Sau khi thụ phong linh mục, ngài phụ tá cho Ðức Tổng Giám Mục của Caesarea (bây giờ là vùng đông nam Thổ Nhĩ Kỳ) và sau cùng chính ngài trở thành tổng giám mục, bất kể sự chống đối của các giám mục phó, có lẽ vì ngài đã nhìn thấy những canh tân cần thiết. Trong nhiệm vụ của một tổng giám mục, ngài siêng năng học hỏi và làm việc liên lỉ. Ðiều này giúp ngài được gọi là "Vĩ đại" ngay trong thời của ngài và là Tiến Sĩ Hội Thánh sau khi ngài chết.
Vào thời ấy, một trong những nguy hại nặng nề cho Giáo Hội là bè rối Arian, mà họ khước từ thiên tính của Ðức Kitô. Hoàng đế Valens bách hại đạo chính thống, và ép buộc Ðức Basil phải giữ im lặng và chấp nhận cho những người bè rối được rước lễ. Ðức Basil giữ vững lập trường, và Valens phải nhượng bộ. Nhưng khó khăn vẫn còn. Khi vị đại thánh Anthanasius từ trần, trách nhiệm che chở bảo vệ đức tin chống với bè rối Arian đổ xuống trên Ðức Basil. Ngài cố gắng khủng khiếp để kết hợp và phục hồi những người Công Giáo theo ngài đang bị tan nát vì sự bạo ngược và vì chia rẽ nội bộ. Có thể nói sự chiến thắng tà thuyết Arian trong Công Ðồng Nicene và việc lên án tà thuyết này trong Công Ðồng Constantinople năm 381-382, phần lớn là do công lao của ngài.
Ngài làm việc không biết mệt trong công việc mục vụ, chống với nạn buôn thần bán thánh, giúp đỡ nạn nhân của hạn hán và đói kém, cố gắng thay đổi hàng giáo sĩ, nhấn mạnh đến tinh thần kỷ luật, ngài không sợ lên án những điều xấu xa một khi được nhận thấy, và ra vạ tuyệt thông những ai dính líu đến nạn mãi dâm ở Cappadocia.
Ðức Basil nổi tiếng là một nhà diễn thuyết. Các văn bản của ngài, dù thời ấy không nổi tiếng, đã đưa ngài lên hàng các bậc thầy của Giáo Hội. Bảy mươi hai năm sau khi ngài từ trần, Công Ðồng Chalcedon đã đề cập đến ngài là "Ðức Basil vĩ đại, người thừa tác ơn sủng đã dẫn giải chân lý cho toàn thể trái đất."
Lời Bàn
Như người Pháp thường nói, "Càng thay đổi bao nhiêu, họ càng giữ nguyên như vậy." Thánh Basil phải đối diện với các khó khăn giống như Kitô Hữu ngày nay. Bổn phận của một vị thánh là duy trì tinh thần Ðức Kitô trong những vấn đề thật đau khổ và phức tạp, như cải cách, tổ chức, chiến đấu cho người nghèo, duy trì sự quân bình và bình an khi bị hiểu lầm.
Lời Trích
Thánh Basil nói: "Thực phẩm mà bạn không dùng là thực phẩm của người đói; quần áo bạn treo trong tủ là quần áo của người trần truồng; giầy dép bạn không dùng là giầy dép của người chân không; tiền bạc bạn cất giữ là tiền bạc của người nghèo; hành động bác ái mà bạn không thi hành là những bất công mà bạn đã phạm."
Trích từ NguoiTinHuu.com
Ảnh: Internet
Thứ Tư (sau lễ Thánh Gia Thất) Mùa Giáng Sinh
Ngày 2/1 Thánh Basil Cả
PHÚC ÂM: Ga 1, 19-28
"Có một Đấng sẽ đến sau tôi, nhưng chính Đấng đó đã có trước tôi".
Đây là chứng của Gioan, khi những người Do-thái từ Giêru-salem sai các vị tư tế và các thầy Lêvi đến hỏi ông: "Ông là ai?" Ông liền tuyên xưng, ông không chối, ông tuyên xưng rằng: "Tôi không phải là Đấng Kitô". Họ liền hỏi: "Như vậy là thế nào? Ông có phải là Elia chăng?" Gioan trả lời: "Tôi không phải là Elia". - "Hay ông là một đấng tiên tri?" - Gioan đáp: "Không phải".
Họ liền bảo: "Vậy ông là ai, để chúng tôi trả lời cho những người sai chúng tôi. Ông tự xưng là ai?" Gioan đáp: "Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi, như tiên tri Isaia đã loan báo".
Và những người đã được sai đến đều thuộc nhóm biệt phái. Họ hỏi Gioan rằng: "Nếu ông không phải là Đức Kitô, cũng không là Elia hay một tiên tri, vậy tại sao ông làm phép rửa?" Gioan trả lời: "Tôi làm phép rửa trong nước, nhưng giữa các ngươi, có Đấng mà các ngươi không biết. Đấng ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính Đấng ấy đã có trước tôi, và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người". Việc này xảy ra tại Bêtania, bên kia sông Giođan, nơi Gioan làm phép rửa.

"Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân" (Ga 2,17)